Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vị trí, vai trò quan trọng của đại đoàn kết trong sự nghiệp cách mạng. Đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam mọi thời đại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại nhiều di sản quý báu cho dân tộc Việt Nam, trong đó phải kể đến tư tưởng đại đoàn kết dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà còn là đường lối chiến lược của Đảng, là động lực to lớn góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất và phát triển đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vị trí, vai trò quan trọng, quyết định của đại đoàn kết trong sự nghiệp cách mạng. Trong số Di sản mà Người để lại có tới 50% số tác phẩm, bài viết, bài nói đề cập đến vấn đề đoàn kết; cụm từ “đoàn kết” và “đại đoàn kết” xuất hiện khoảng 2000 lần.

Theo Hồ Chí Minh đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt Nam. Người chỉ rõ: “Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”1. Vì vậy để tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết đó, mọi người dân, nhất là cán bộ, đảng viên  phải luôn trân trọng truyền thống ấy và giữ gìn truyền thống tốt đẹp của dân tộc như giữ gìn “con ngươi trong mắt mình”: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”2.

Khi đánh giá về vai trò của đại đoàn kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Để đánh bại các thế lực đế quốc, thực dân, giải phóng dân tộc, chỉ có tinh thần yêu nước thôi thì chưa đủ; cách mạng muốn giành thắng lợi cần phải tập hợp được tất cả mọi lực lượng có thể với tinh thần “muôn người như một” để xây dựng một khối đại đoàn kết dân tộc bền vững. Người khẳng định: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, cái gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”3.

Đại đoàn kết dân tộc là chiến lược lâu dài của cách mạng, là tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt quá trình lịch sử Việt Nam, là nhân tố bảo đảm thắng lợi của cách mạng. Do vậy, trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp đoàn kết phù hợp, luôn quán triệt quan điểm: đại đoàn kết là vấn đề sống còn của cách mạng, là nguồn gốc của thành công: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”4.

Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có một “ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Ham muốn tột bậc của Người cũng chính là mục tiêu lớn của dân tộc Việt Nam và các dân tộc trên thế giới. Muốn thực hiện được mục tiêu đó thì trước hết phải thực hiện mục tiêu đoàn kết dân tộc. Bởi vì cách mạng là sự nghiệp quần chúng, vì quần chúng. Vì vây, vấn đề đại đoàn kết dân tộc phải xuất phát từ đòi hỏi khách quan của cách mạng do quần chúng tiến hành. Quần chúng Nhân dân luôn có vai trò và sức mạnh quyết định đối với sự nghiệp cách mạng, Người khẳng định: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”5.  Đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các chính đảng, đoàn thể, các dân tộc, tôn giáo, kể cả những người trước đây lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải, quay về với chính nghĩa của dân tộc. Đoàn kết trong tư tưởng của Người là đoàn kết rộng rãi, mở rộng và tranh thủ tất cả những lực lượng và bộ phận có thể tranh thủ sức mạnh của họ: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ. Ai có tài, có sức, có đức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”6.

quan-thanh-1211241-6-1731450005577-17314500066231768100052

Tổng Bí thư Tô Lâm dự và tặng hoa Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tại Phường Quán Thánh, Quận Ba Đình, Hà Nội – Ảnh TTXVN

Hơn 90 năm thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết phù hợp với tình hình thực tiễn, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng, luôn kiên định mục tiêu “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Việc tiếp tục tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc là một trong những động lực quan trọng để đưa nước ta bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, được thể hiện ở một số nội dung chủ yếu sau đây:

Một là, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đã chứng minh, mỗi khi dân tộc ta đoàn kết thống nhất, thì chúng ta vượt qua mọi thách thức, chiến thắng mọi kẻ thù, phát triển kinh tế ổn định, nâng cao đời sống Nhân dân. Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định sức mạnh đại đoàn kết dân tộc là yếu tố quan trọng đã đưa nước ta đạt nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới hiện nay: “toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quyết tâm, bản lĩnh, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật; đất nước phát triển nhanh và bền vững; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa… Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” 7.

Đạt được kết quả đó là “Do phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự tham gia đồng bộ, quyết liệt của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự đồng lòng ủng hộ của nhân dân”8.

Đại đoàn kết dân tộc là chủ trương lớn của Đảng cần tiếp tục được củng cố phát triển trong kỷ nguyên mới. Đảng nhấn mạnh: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hoá, con người Việt Nam; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”9.

quan-thanh-1211241-1731450009005-17314500091901594919092

Theo Tổng Bí thư Tô Lâm: sức mạnh đại đoàn kết dân tộc luôn là một trong những nguồn lực quan trọng nhất, mạnh mẽ nhất để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vượt qua khó khăn thử thách, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới , phát triển đất nước hiện nay

(Ảnh TTXVN) 

Hai là, Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của cách mạng, của dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc nhằm thực hiện mục tiêu của cách mạng Việt Nam: “Phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”10. Đây cũng chính là mục tiêu của chiến lược đại đoàn kết dân tộc. Sự hòa quyện giữa ý Đảng với lòng Dân, sự đồng nhất giữa mục tiêu cách mạng của Đảng, của dân tộc với mục tiêu của khối đại đoàn kết đã cho thấy, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước luôn đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, thấu hiểu tâm tư nguyện vọng Nhân dân, luôn tin tưởng vào sức mạnh của quần chúng; đồng thời cũng phản ánh sự tin tưởng tuyệt đối của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Ba là, sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc chính là sức mạnh của toàn thể dân tộc, sức mạnh của toàn dân. Do vậy cần phải có những giải pháp nhằm tiếp tục phát huy sức mạnh của các tầng lớp Nhân dân trong thời kỳ mới.

Đại hội XIII của Đảng đã đưa ra các giải pháp nhằm tiếp tục phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc:

Đối với giai cấp công nhân, xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Đối với giai cấp nông dân, phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới; Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hoá, đạo đức tiến bộ và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi; Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hoá, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội; xây dựng môi trường, điều kiện học tập, lao động, giải trí, rèn luyện để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hoà cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ; Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế; Động viên cựu chiến binh, công an hưu trí phát huy bản chất, truyền thống Bộ đội Cụ Hồ và Công an nhân dân Việt Nam cách mạng trong xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống; Phát huy trí tuệ, kinh nghiệm sống, lao động, học tập của người cao tuổi trong xã hội, cộng đồng và gia đình; Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ tư, tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộcTập hợp, vận động Nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, thực hành dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội. Đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội, hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư. Thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, tăng cường đối ngoại Nhân dân. Xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của Nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong không khí toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, kỷ niệm ngày Truyền thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và ngày hội Đại đoàn kết toàn dân 18/11/2024, việc tiếp tục vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong thời đại hiện nay càng trở nên cần thiết. Đại đoàn kết dân tộc là cội nguồn sức mạnh để đất nước phát triển mạnh mẽ, là một trong những điều kiện cần và đủ để nước ta bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, hoàn thành những mục tiêu mà Đảng ta đã xác định trên con đường phát triển tiếp theo của cách mạng Việt Nam.

  • Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật,H, 2011,t.3, tr.256.

  • Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật,H, 2011,t.5, tr.611.

  • Hồ Chí Minh:Sđđ,t.9,tr.244.

  • Hồ Chí Minh: Sđd,t.10, tr.120.

  • Hồ Chí Minh: Sđd,t.10, tr.453.

  • Hồ Chí Minh: Sđd,t.9, tr.244.

 (7) (8) (9) (10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.

Tin liên quan: